Nam Định Qua Lăng Kính Lịch Sử (phần 2)

NHÀ MÁY DỆT NAM ĐỊNH
Nhà máy Dệt Nam Định từng là 1 cơ sở nghiên cứu về tơ lụa, do Toàn quyền Đông Dương De Lanessan lập ra.
Năm 1898, Toàn quyền Paul Doumer cho phép lập một nhà máy tơ chạy bằng hơi nước có 6 lò đặt ngay tại thành phố.
Năm 1900, một số tư bản Pháp trong Công ty bông – vải – sợi Bắc Kỳ đã hùn vốn với một thương nhân người Hoa là Bá Chính Hội cùng kinh doanh.
Sau năm 1954, Nhà máy được Nhà nước tiếp quản từ tay tư bản Pháp
Nhà máy Dệt Nam Định từng là nhà máy lớn nhất Đông Dương.
Nhà máy Dệt Nam Định với trang thiest bị cũ kỹ không theo kịp bền kinh tế thị trường, đã bị phá bỏ dần dần, bán cho tư nhân xây dựng nhà cửa….
Nay chỉ còn Bảo tàng Dệt Nam Định ở phố Hoàng Hoa Thám, với quán café hoài niệm

Nam Định (5_1) Dệt Nam Định.jpg

1923 – ông Leon Anthyme Dupré – người sáng lập công ty Cotton Tonkin (Sợi bông Bắc Kỷ) vào năm 1900 (lúc 35 tuồi), tiền thân của Nhà mày Dệt Nam Định

Nam Định (5_2).jpg

Khu nhà máy của Công ty Sợi bông (nhà máy Dệt Nam Định) đầu thế kỷ 20

Nam Định (5_3).jpg

Nhà máy Dệt Nam Định đầu thế kỷ 20

Nam Định (5_4).jpg

Khu làng của người trồng bông nằm dưới quyền quản lỷ của Công ty Sợi bông Bắc Kỳ ở Quần Phương Hạ, Hải Hậu, Nam Định

Nam Định (5_6).jpg

Khu dinh thự cùa gia đinh giám đốc Leon Anthyme Dupré, nay là Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định

Nam Định (5_7).jpg

 

Nam Định (5_14).jpg

Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định vốn xưa là khu dinh thự của gia đình giám đốc Leon Anthyme Dupré

Nam Định (5_8).jpg

Phòng ăn trong khu dinh thự của gia đình giám đốc Leon Anthyme Dupré (nay là Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định)

Nam Định (5_9).jpg

Phòng ngủ trong khu dinh thự của gia đình giám đốc Leon Anthyme Dupré (nay là Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định)

Nam Định (5_10).jpg

Phòng khách trong khu dinh thự cùa gia đình giám đốc Leon Anthyme Dupré (nay là Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định)

Nam Định (5_11).jpg

Phòng làm việc của giám đốc Leon Anthyme Dupré (nay là Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định)

Nam Định (5_12).jpg

Hành lang chinh khu dinh thự của gia đinh giàm đốc Leon Anthyme Dupré (nay là Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định)

Nam Định (5_13).jpg

Sân vận động bóng đá nhà máy Dệt Nam Định (phía xa là dinh thự của gia đinh giám đốc Leon Anthyme Dupré)

Nam Định (5_15).jpg

Hành lang chinh khu dinh thự của gia đinh giàm đốc Leon Anthyme Dupré (nay là Bảo tàng Dệt may Việt Nam ở thành phố Nam Định)

Nam Định (5_16).jpg

1953 – một phần khu nhà máy Dệt Nam Định nhìn từ trên cao

Nam Định (5_17).jpg

Biểu tượng Nhà máy Dệt Nam Định, cải tạo năm 1961

Nam Định (5_18).jpg

 

Nam Định (5_19).jpg

Cổng Công ty Sợi bông Bắc Kỳ (Cotton Tonkìn) sau 117 năm

Nam Định (5_20).jpg

Nhà máy Dệt Nam Định được in trên mặt sau tờ tiền 2000 đồng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

KỲ THI HƯƠNG Ở NAM ĐỊNH NĂM 1897
Dưới thời phong kiến, quan lại được bổ nhiệm theo KHOA CỬ
KHOA là THI
CỬ là tiến cử (nay ta gọi là giới thiệu).
Người tiến cử phải chịu trách nhiệm về người mình tiến cử. Hay thì được nhở, rủi người được tiến cử “làm loạn hoặc theo giặc” thì người tiến cử chịu hình phạt tương xứng, nặng nhất có thể là “tru di tam tộc”
Dưới thời Nguyễn cụ thể như sau
Có ba mức thi:
Thi Hương: 3 năm, một lần
Thi Hội: 3 năm một lần
Thi Đình: không quy định
Bắc Kỳ có 2 trường thi Hương:
1, chỗ Thư viện Quốc gia ngày nay (trên phố Tràng Thi, Hà Nội) gọi là Trường Hà.
2, ở Nam Định ở chỗ phường Trường Thi, gọi là Trường Nam
Trường thi là một bãi đất trống, sau khi thi lại trở thành nơi cày cấy, trồng trọt. để ba năm sau lại dọn dẹp phát quang cây cối thành trường thi

Nam Định 1897 (7).jpg

Bãi đất làm trường thi Hương ở Nam Định năm Đinh Dậu 1897
Bức hình hiếm hoi vị trí trường thi Nam Định năm Đinh Dậu 1897, nay thuộc phường Trường Thi, thành phố Nam Định

Nam Định 1897 (5).jpg

Vị trí trường thi Hương ở Nam Định năm Đinh Dậu 1897

HI HƯƠNG
Thi Hương là một khóa thi cử về nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng ở các địa phương. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính.
Kỳ thi Hương là kỳ thi sơ khởi nhất. Sau khi đỗ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi cao cấp hơn là thi Hội (cao hơn nữa là thi Đình).
Số người thi Hương từ 10-20.000 người, sau khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, thì người Pháp hạn chế việc thi cử kiểu này và bãi bỏ vào năm 1915
Thế nhưng kỳ thi Hương năm Quý Mão 1903 vẫn có hơn 10.000 sĩ tử dự thi
Một thường dân muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện (gọi là Khảo hạch):
1) Phải có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải được xã trưởng và quan địa phương xác nhận.
2) Phải có trình độ học lực: trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng một kỳ thi trước với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4 kỳ trên. Đây là kỳ thi ám tả cổ văn; ai đỗ kỳ này mới được vào thi Hương.
Vì đây là kỳ thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính, nên đỗ kỳ này chẳng có học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi, ai đỗ kỳ này cũng đã vinh dự lắm, nhất là đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được tặng danh hiệu “đầu xứ” (về sau đỗ đầu tỉnh cũng được gọi là đầu xứ) gọi tắt là “ông xứ” như: xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu), xứ Tố (Ngô Tất Tố). Ông xứ Tố chỉ đỗ đầu xứ thôi, chẳng có học vị gì, nhưng thật là một nhà Nho uyên thâm.
Cụ Ngô Tất Tố chính là tác giả tác phẩm “Tắt đèn”, “Lều chõng”…. trong “Lều chõng” cụ mô tả cảnh tượng về cuộc thi Hương
Dưới thời nhà Nguyễn thì tôn sinh (con cháu trong hoàng tộc), ấm sinh (con các quan), và tú tài thì không phải qua phần khảo hạch. Những người qua được khảo hạch thì gọi là khóa sinh. Khóa sinh sẽ thành thí sinh khi chính thức đi thi.

Theo quy định từ năm 1434, thi Hương tương tự như thi Hội cũng có 4 kỳ hay còn gọi là 4 trường.
Kỳ I thi kinh nghĩa, thư nghĩa: giải thích ý nghĩa trong câu lấy từ Tứ thư, Ngũ kinh. Bài thi phải viết theo lối biền văn – tức là có đối mà không cần vần, phần thi này nhằm kiểm tra khả năng hiểu biết kinh truyện của sĩ tử;
Kỳ II thi chiếu, chế, biểu: chiếu – lời vua nói, chế – vua phong thưởng cho công thần, biểu – bài văn thần dân tạ ơn vua hoặc chúc mừng vua nhân dịp ngày lễ. Sĩ tử phải biết lựa từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà dùng giọng văn cho thích hợp. Đây là bài thi kiểm tra khả năng soạn văn bản làm quan sau này;
Kỳ III thi thơ phú: các bài thi được làm theo thể thất ngôn bát cú, phần thi này kiểm tra khả năng làm thơ của sĩ tử bởi đây là một trong những sinh hoạt quan trọng của tầng lớp trí thức;
Kỳ IV thi văn sách: là bài văn trả lời câu hỏi về một vấn đề của đề bài. Phần thi nằm kiểm tra khả năng biện bác, bàn luận vấn đề lịch sử và hiện tại của sĩ tử.

Mô tả một kỳ thi Hương
Thi từ sáng sớm đến tối mịt
Trống điểm canh tư (chừng 1g sáng) thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên, đến khoảng canh năm tám khắc (khoảng 5g sáng) thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân (3-5 giờ chiều) thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một (tức 19g). Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo… và thức ăn dùng trong một ngày.
Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi (tức giấy làm bài thi đóng thành quyển), phải giữ gìn hết sức sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu. Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ mặt thì xong để chuẩn bị làm bài thi.
Tứ trường và thiên kinh vạn quyển
Theo Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, thi hương có khi thi ba vòng (người xưa gọi tam trường) có khi thi bốn vòng (tứ trường). Vòng một thi kinh nghĩa (tức các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo), vòng hai thi chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ, dụ…), vòng ba thi thơ phú (sáng tác theo chủ đề của đề thi), vòng bốn thi văn sách (tương tự như thi tự luận).
Vòng 1
Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ với thí sinh, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa.
Vòng 2
Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài thi.
Vòng 3
Dễ làm và khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay, mà “cái hay” nó vô cùng.
Vòng 4
Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, không những phải làu thông kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ. Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực: thiên văn, địa lý, bói toán, y học…; đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi thí sinh phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!

Mang tài liệu vào trường thi: gông cổ, đánh 100 roi
Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” (là dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi…); cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn. Các quy định đó xem ra cũng không khác gì bây giờ, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì rất nghiêm khắc. Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì không những thí sinh bị trị tội mà còn truy tội cả các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương.
Trong bài thi lại có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (không biết tránh chữ húy). Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình, đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua…
Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu… thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ). Nếu không là mắc lỗi khiếm đài.
Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh rớt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ (xóa bỏ), di (sót), câu (móc), cải (sửa) quá 10 chữ. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi.

Đỗ đầu kỳ thi Hương (4 vòng), đỗ thủ khoa, gọi là giải nguyên
Qua được cả bốn trường (vòng) thì được học vị hương cống (về sau gọi là cử nhân), được ban cấp áo mão, ban yến (đãi tiệc), rồi vinh quy bái tổ. Năm sau được phép thi Hội ở Huế
Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường (vòng) thi hương thì được học vị tú tài.
Đỗ tú tài thì không được triều đình bổ dụng nhưng đối với trong làng, trong tổng thì địa vị đương sự thăng từ hạng thường dân lên hạng chức sắc, có chân trong hội đồng kỳ mục, được miễn sưu dịch, và khi có cỗ bàn trong đình thì được ngồi chiếu trên.
Đỗ cử nhân thì ngoài việc được phép dự thi Hội, còn được bổ nhiệm làm quan trong những ngạch thuộc cửu phẩm, được vua ban áo mũ và làng xã phải phục dịch đón tiếp vinh quy. Người đỗ cao nhất trong kỳ thi hương thì còn có danh là giải nguyên tuy lúc bổ nhiệm thì cũng khác gì các tân khoa kia.

Tiếp tục cuộc đua tiến sĩ
Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi sang năm vào kinh đô dự kỳ thi Hội, cùng với những cử nhân của các khoa trước đó, những thí sinh đã vượt qua một kỳ khảo hạch đặc biệt do triều đình, và một số ít quan lại muốn có học vị cao hơn.
Cách thức làm bài và trường quy thi hội không khác mấy với thi hương, chỉ khác là phạm quy thì bị tội nặng hơn.
Thi hội không có truyền lô (xướng danh) nhưng lễ yết bảng (công bố kết quả) rất long trọng.
Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách.
Thi Hội là một khóa thi cử về Nho học do bộ Lễ của triều đình phong kiến tổ chức 3 năm một lần tại các trường trung ương để tuyển chọn người có tài, học rộng.
Khoa thi này được gọi là “Hội thi cử nhân” hoặc “Hội thi cống sĩ” (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.
Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh – tên dân gian là ông Nghè). Người đỗ đầu (thủ khoa) gọi là Hội Nguyên.
Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng (ông Phó Bảng).

Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi đình, tổ chức trong cung đình, do đích thân nhà vua ra đề và là người chấm thi cuối cùng.
Thi đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.
Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách hẳn hoi. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai.
Sau khi vua chấm bài thì học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, được thăm hoa ở vườn ngự uyển, được cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi.
Từ 1829, thang điểm thi Đình là:
Đạt 10 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh (Đình nguyên, đỗ đầu thi Đình, tương đương với Trạng nguyên trước kia, vì nhà Nguyễn chủ trương không lấy Trạng nguyên).
Đạt 9 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhị danh (Bảng nhãn).
Đạt 8 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa).
Đạt 7 và 6 điểm, đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).
Đạt 5 điểm trở đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (đồng tiến sĩ).
Đạt 5 điểm trở xuống đỗ phó bảng.
Thi đình: đỗ thi đình đạt học vị chung là tiến sĩ; đỗ thủ khoa: đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8-10 điểm được xếp bậc đệ nhất giáp. 10 điểm được lấy đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh, thường gọi là trạng nguyên. 9 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn. 8 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.
Từ năm 1851
Vua Tự Đức có cho thêm một số Phó bảng có điểm số thi Hội gần với điểm chuẩn đỗ chánh bảng được tham dự thi Đình để có thêm cơ hội phấn đấu. Nếu đạt điểm chuẩn đỗ tiến sĩ thì được công nhận là tiến sĩ, nếu không đạt vẫn được công nhận là Phó bảng. Vua Tự Đức giữ nguyên tiêu chuẩn đỗ tiến sĩ cập đệ và tiến sĩ xuất thân, sửa lại tiêu chuẩn đỗ đồng tiến sĩ xuất thân như sau:
Đạt 4 điểm đến 5 điểm đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (đồng tiến sĩ).
Đạt 3 điểm trở xuống đỗ phó bảng.

Nam Định 1897 (2).jpg

Trường Thi Nam Định 1897
1. Ao
2. Giám viện
3. Nhà của quan Giám sát Nội trường
4. Nhà của các quan Sơ khảo
5. Nhà của các quan Phúc khảo
6. Lại phòng
7. Nhà Đề tuyển.
8. 9. Nhà cùa các quan Chánh, Phó Đề tuyền
10. Thí viện
11,12,13,14. Nhà của các quan Chánh, Phó Chủ khảo và Phân khảo.
15. Nhà của quan Giám sát Ngoại trường.
16. Nhà Thập đạo.
17. Tiền môn (cổng chính)
18. những lối vào

Nam Định 1897 (8).jpg

12-1897 – Kỳ thi Hương ở Nam Định năm Đinh Dậu

Nam Định 1897 (10).jpg

Hàng chục nghìn sĩ tử mang lều chõng đến trường thi

Nam Định 1897 (11).jpg

Nam Định – Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Đường thập đạo và nhà giám khảo trong trường thi Hà-Nam, ngày 27-12-1897. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (146).jpg

Quang cảnh trường thi Nam Định khoá thi Nhâm Tý (1912) với chòi canh và lễu chõng của thí sinh

Nam Định 1897 (149).jpg

Bên trái là đường thập đạo, tứ phía là nơi sĩ tử dựng lều làm bài thi

Nam Định 1897 (16).jpg

Kỳ thi Hương ở Nam Định (27-12-1897) tổ chức 3 năm một lần. Trong hình là chòi gác thi và những luống đất nơi các thí sinh sẽ dựng lều và đặt chõng để ngồi làm bài. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (21).jpg

12-1897 – Quan giám khảo Trần Sĩ Trác trong Khoá thi Hương năm Đinh Dậu ở Nam Định. Ảnh: Firmin-André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (23).jpg

28-12-1897 – Ông Nguyễn Trọng Hiệp, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ đến dự lễ bái tạ của các tân khoa kỳ thi Hương tại Vọng Cung Nam Định. Ảnh: Firmin-André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (26).jpg

Nam Định, 28-12-1897 – Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình Cao Xuân Dục đến Vọng Cung dự lễ các tân khoa bái vọng vua. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (29).jpg

Ông Đồng Sĩ Vịnh, Chủ khảo trường Hà-Nam, khoa thi Hương năm Đinh Dậu (tháng 12-1897)

Nam Định 1897 (30).jpg

12-1897 – Hội đồng giám khảo kỳ thi Hương Nam Định, tháng 12/1897. Ảnh: Firmin-André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (35).jpg

Nam Định, tháng 12-1897 – Khoa thi Hương năm Đinh Dậu – Ông Thân Trọng Khoái, Giám sát. Ảnh: Firmin-André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (37).jpg

Nam Định, tháng 12-1897 – một trong những giám khảo Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (39).jpg

Nam Định, tháng 12-1897 – giám khảo Khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (64).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Lễ xướng danh những người thi đậu (cử nhân và tú tài) khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (66).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Toàn quyền Paul Doumer, Thống sứ Bắc Kỳ Fourès, Công sứ Nam Định Lenormand, và Tổng đốc Cao Xuân Dục tham dự lễ xướng danh Khoa thi Hương năm Đinh Dậu trường Hà-Nam, diễn ra vào ngày 27-12-1897

Nam Định 1897 (69).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Đám đông theo dõi lễ xướng danh khi các tân khoa được hướng dẫn đi bái chào các quan giám khảo ngồi trên hai dãy ghế cao hai bên con đường Thập đạo dẫn vào từ cổng chính ở bìa trái hình. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (72).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các giám khảo ngồi thành hai hàng trên ghế cao để các tân khoa đi qua bái chào. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (73).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các giám khảo ngồi thành hai hàng trên ghế cao để các tân khoa đi qua bái chào. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (74).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các giám khảo ngồi thành hai hàng trên ghế cao để các tân khoa đi qua bái chào. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (83).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Tân khoa ra mắt Khảo quan (Trường Hà-Nam). Nghe xướng đến tên mình, ông Tân khoa phải ứng tiếng “Dạ” thật to, đưa trình thẻ căn cước rồi theo một người lính dẫn đến vái chào các Khảo quan. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (85).jpg

Nam Định, 27-12-1897 – Lễ xướng danh khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Các Tân khoa ngồi đợi kết thúc lễ xướng danh sau khi được đưa đi chào ra mắt các giám khảo ngồi trên hai dãy ghế cao trong hình bên dưới. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (100).jpg

1897 – Lễ bái tạ vua tại Vọng cung Nam Định, nhóm bên trái, thứ hạng 1. (Cử nhân)

Nam Định 1897 (103).jpg

28-12-1897 – Lễ bái tạ vua tại Vọng cung Nam Định, nhóm bên trái, thứ hạng 2. Ảnh: Firmin-André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (105).jpg

28-12-1897 – Tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) tại NAM ĐỊNH làm lễ bái tạ vua tại Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: Firmin-André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (109).jpg

Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (110).jpg

Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa Khoa thi Hương năm Đinh Dậu làm lễ tạ ơn vua ở Vọng cung, với sự hiện diện của các quan giám khảo, cựu quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp và Công sứ Pháp Lenormand. Ảnh: André Salles (1860-1929)

 

Pháp độc quyền bán rượu ở Việt Nam. Rượu tự nấu rẻ hơn rượu Phông-ten của Pháp. Như thế đe doạ ngành rượu Pháp, vì thế tội nấu rượu lậu to lắm đấy ạ. Nhà Đoan (Tây Đoan) lùng sục rất ghê. Người Việt hãm hại nhau bằng cách bỏ bầu rượu (bong bóng trâu) ở ruông đối phương rồi báo nhà Đoan
Đoan (có nghĩa là thuế hải quan, nghĩa thứ hai là sở thuế). Nhà thơ Xuân Diệu từng làm ở Nhà Đoan lúc trẻ

Nam Định 1897 (117).jpg

27-12-1897 – Các tân khoa cử nhân đi vào chỗ của mình để bái tạ Toàn quyền Đông Dương. Ảnh: Firmin-André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (119).jpg

Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa đến Dinh Công sứ Nam Định tạ ơn. Có mặt Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp, Tổng đốc Cao Xuân Dục và Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Nam Định 1897 (122).jpg

Nam Định, 28-12-1897 – Các tân khoa đến Dinh Công sứ Nam Định tạ ơn. Có mặt Cựu Quyền Kinh Lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp, Tổng đốc Cao Xuân Dục và Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Ảnh: André Salles (1860-1929)

Một cảnh khác ở phi trường Nam Định

Photographer_Robert Capa (46).jpg

Photographer_Robert Capa (47).jpg
184134-44803-img-1496-kl-a04btx-npo8umrcpu.jpg

Trạm biến thế 110 kV, giữa phố Lương Thế Vinh và ga Nam Định,chụp năm 2013. Chỗ này là bãi đỗ máy bay và hậu cần của phi trường.

Dưới đây là những hình ảnh cuộc càn quét mà Robert Capa tham gia và tử nạn hôm 25/5/1954. Những bức ảnh mầy là nguyên bản
Binh sĩ Việt Nam càn quét ở khu vực giữa Nam Định và Thái Binh, 25-5-1954. Một trong những bức hình cuối cùng của Robert Capa trườc khi ông trúng min chết lúc 14 giơ 55 phút . Ảnh: Robert Capa

Photographer_Robert Capa (19).jpg

Photographer_Robert Capa (20).jpg
Photographer_Robert Capa (21).jpg
Photographer_Robert Capa (23).jpg

Photographer_Robert Capa (24).jpg

Bài Viết Liên Quan

Văn minh hồi giáo

Chính phủ Mỹ ngày 22/4 tuyên bố tất cả những quốc gia và vùng lãnh thổ đang mua dầu Iran sẽ phải chấm dứt hoạt động này trước ngày 1/5

Nam Định Qua Lăng Kính Lịch Sử

Vong Cung, Nam Định, cuối thế kỷ 19 Thành Nam Định cuối thế kỷ 19 Chỉ có vùng đất quanh thành, xung quanh vẫn là ao chuôm *** Nam Định

Hồi ký Alex Ferguson – Book Review

1. Beckham Cầu thủ có mong muốn lấn sân sang lĩnh vực giải trí và đã rất giầu có. Có tài năng và đam mê với trái bóng. Khả năng